22 thg 7, 2013

Tiếp cận hội hoạ-từ góc nhìn đương đại. Bài 3: Nhân đọc “Phê bình bị phê bình nhiều nhất”, ghi chú về phê bình.

Về công việc phê bình và nhà phê bình, trong bài viết “Phê bình bị phê bình nhiều nhất” đăng trên tạp chí Tia Sáng số tháng 9-2007,[*] Nguyễn Bỉnh Quân đã viết, đại ý: nhà phê bình chỉ là chuyên gia “ẩm thực nghệ thuật” theo kiểu“ ăn món ấy, ở hàng ấy thấy ngon và “giá cả hợp lý” thì phát ngôn ra cho mọi người biết”; tài năng phê bình chủ yếu thể hiện ở “khẩu vị”, ở cảm nhận và chỉ có thể là của “trời cho”, “không học mà có được”…; tư cách của nhà phê bình, bên cạnh là “tâm giao” của tác giả với một vài bạn đọc còn là nhà giáo dục thẩm mỹ của công chúng. Nói chung, “Phê bình là hoạt động xã hội, là sản phẩm truyền thông, là công cụ marketing cần/và tất có  hiệu quả văn hóa, xã hội, kinh tế”… v.v…


Có thể nói ngay, cách nhìn về công việc và người phê bình mỹ thuật như vậy là quá lơ mơ và bất cập thực tế.


Vấn đề cần phải được nhìn khác. Dưới đây, tôi xin đưa ra một ít ghi chú:


Thứ nhất, phê bình theo kiểu chuyên gia “ẩm thực nghệ thuật”, chủ yếu dựa vào “khẩu vị”, vào cảm nhận, và mang tính “tâm giao” như vậy, chỉ là một trong những kiểu phê bình khác nhau. Và, là một trong những kiểu phê bình cũ và bấp bênh nhất. Cũ, bởi nó gắn liền với lối phê bình ấn tượng chủ yếu thịnh hành trong nửa sau thế kỷ 19. Bấp bênh, bởi khi chỉ dựa vào “khẩu vị” vào cảm nhận và diễn dịch từ các thức tỉnh giác quan, kiểu tiếp cận phê bình này, tự nhiên, đã tách rời tác phẩm. Nó dễ dẫn đến những suy diễn viển vông, những phán đoán hàm hồ, và do đó, thường, chỉ có tác dụng gieo rắc ảo tưởng. Thêm nữa, bấp bênh, vì nó chỉ “khả thủ” trước những tác phẩm có cách nhìn, cách thể hiện nghệ thuật quen thuộc - còn nằm trong truyền thống nghệ thuật ước lệ hay biểu hiện. Trước những hình thức nghệ thuật quá mới lạ, nó “tê liệt”.


Bao nhiêu năm qua, bởi chính kiểu phê bình này vẫn là “chủ đạo”, mà tuy có lắm phê bình, công chúng, đa số, vẫn cứ lơ ngơ không hiểu gì về mỹ thuật, còn các họa sĩ, sau thoáng phấn chấn ở giai đoạn đầu “đổi mới” lại tiếp tục loay hoay không biết “mình là ai”, hấp thụ năng lượng ở đâu để sáng tạo…


Trong bối cảnh chịu sự chi phối, ảnh hưởng tràn lan của rất nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau - khó phân biệt “lạc hậu” với “tân tiến”, “tinh túy” với “rác rưởi” - tràn vào từ mọi nơi, cả nền văn hóa mỹ thuật Việt Nam, thực tế, đang rất cần sự tỉnh táo lý trí với cách tiếp cận phê bình biết tận dụng các thành tựu lý thuyết của nhân loại. Nói chung, là cần thứ phê bình có học hơn chứ không chỉ dựa vào “thiên phú” với cảm nhận. Thậm chí, là cần thứ phê bình lạnh lùng mổ xẻ, hướng đến một viễn cảnh rộng lớn, xa xôi hơn chứ không chỉ là chuyện “à ơi ví dầu…” Cuối cùng, cần một lối phê bình có trách nhiệm: nhà phê bình không phải chỉ phát ngôn cái điều mình thích hay không thích mà còn có bổn phận phân tích những điều thích và không thích ấy trước bạn đọc để thuyết phục và tranh cãi với bạn đọc về một quan điểm thẩm mỹ mà mình tin tưởng và muốn cổ vũ.


Thứ hai, phê bình đâu phải chỉ lẽo đẽo theo sau sáng tác, và đâu phải chỉ lấy tác phẩm với công việc sáng tác của người nghệ sĩ làm đối tượng. Đối diện với phê bình còn có công chúng với các vấn đề tiếp nhận nghệ thuật - một đối tượng quan trọng làm nên môi trường tồn tại, quyết định nguồn năng lượng nuôi dưỡng của cả nền nghệ thuật. Đằng sau mỗi mắt nhìn công chúng đâu phải là một khoảng trống không. Nếu không chứa tư tưởng tân tiến, nó sẽ được phủ đầy bởi đủ các loại thành kiến lạc hậu. Và tất cả những thứ đàng sau đó sẽ chi phối, ảnh hưởng đến cách nhìn, cách cảm, cách ứng xử với nghệ thuật. Công chúng xưa nay, thực ra, đâu có thụ động trước nghệ thuật. Họ chỉ ứng xử theo kiểu của mình mà thôi.


Tôi có cô bạn họa sĩ. Mấy năm trước, mỗi lần gặp, câu đầu tiên cô hỏi tôi bao giờ cũng là: “Anh bảo em phải làm sao bây giờ?”. Hỏi nhiều lần, nhưng chỉ một câu chuyện: Vợ chồng cô sống với bố mẹ chồng. Giai đoạn đầu, thấy cô cả ngày hí hoáy vẽ, mẹ chồng cô lôi con trai mình ra hỏi “Vẽ có bán được không mà vẽ hoài vậy?”. Chồng cô giải thích cho mẹ “Nhà mình có thiếu tiền đâu mà lo chuyện mua với bán. Vợ con vẽ vì cô ấy có cảm xúc…”. Thế là sau đó, bà mẹ chồng lâu lâu cứ đảo qua dòm ngó con dâu vẽ gì. Có hôm, trước một bức tranh cô vừa mới hoàn thành, bà hỏi “vẽ gì mà trông buồn thế?!”. Cô chưa kịp trả lời, mà cũng không biết trả lời thế nào, bà đã phán một câu xanh rờn: “Làm dâu nhà này chắc khổ lắm hả?!”… Mấy ông/bà tuyên huấn ở Việt Nam, từ trung ương đến địa phương, hình như cũng ứng xử với họa sĩ theo cái kiểu mẹ chồng-nàng dâu như thế! Nền mỹ thuật Việt Nam không phát triển nổi, cơ bản là do DÂN đã không được LÀM MỚI. Và dĩ nhiên, do cả QUAN cũng không được LÀM MỚI…


Tiếp theo nữa, đối diện với phê bình, còn là bao nhiêu cách hiểu, cách nghĩ về nghệ thuật. Những thứ đụng chạm đến các vấn đề về ý nghĩa, về giá trị của nghệ thuật, không chỉ ảnh hưởng đến những người sáng tác, phê bình, thưởng ngoạn, quản lý, giáo dục và đào tạo v.v… mà còn thực sự ảnh hưởng đến toàn bộ diện mạo và tính cách của cả nền văn hóa nghệ thuật. Và, hơn nữa… Khi không xem những vấn đề này là đối tượng của phê bình, cả nền văn hóa nghệ thuật, chỉ tự đẩy mình vào tình trạng ao tù nước đọng. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, nếu không tự giác, không tỉnh táo chọn lọc tinh hoa của thiên hạ, thì chắn chắn, sẽ phải hứng lấy bao nhiêu rác rưởi đến từ khắp nơi… Đối với Việt Nam, chuyện này chẳng còn là nguy cơ. Nó đã là thực tế. Bao lâu nay, người trong giới mỹ thuật, đa số rất khó chịu trước nhận định: mỹ thuật Việt Nam chỉ là “bộ phận thoái hóa” của mỹ thuật phương Tây-cho rằng, đó là một nhận định thiếu thiện chí, có hơi hướm “thực dân”!... Nhưng, nên bình tỉnh một tí! Hình như nó không sai. Hình như bởi vậy, mà ngay trong môi trường văn hóa xã hội Việt Nam nó cũng đã trở thành một “bộ phận thừa dư”-có cũng được, không có cũng chẳng sao!...
V.v… và v.v…


Thứ ba, để làm phê bình bây giờ - một hệ luận rút ra từ hai ý trên và cũng là hệ quả của xu hướng toàn cầu hoá trong đó các nền nghệ thuật từ các nền văn hoá khác nhau tác động hỗ tương lên nhau- dứt khoát phải gắn liền với việc học tập một cách đàng hoàng và nghiêm túc. Không thể thuần tuý trông cậy vào trực giác, cảm nhận. Đó là một ảo tưởng. Thực tế không có SỰ CẢM nào mà không phụ thuộc vào SỰ BIẾT, SỰ HIỂU… Phê bình là đánh giá; đánh giá là so sánh: bất cập kiến thức về lịch sử nghệ thuật của thế giới, không thể biết cái nào là mới và cái nào là cũ, do đó, không thể phê bình chính xác được. Hơn nữa, bất cập về kiến thức lý thuyết, nhà phê bình dẫu được “cấp bằng tiên tri” cũng sẽ mù trước những điều mới lạ. Bao nhiêu năm qua, bởi bất cập lý thuyết, mà ở Việt Nam, không chỉ giới viết báo về mỹ thuật mà cả giới phê bình lẫn giới sáng tác, phần lớn, đều “tù mù mọi sự”. Cái kiểu phê bình cứ thấy xanh xanh đỏ đỏ… là chụp ngay cho cái mũ “Ấn Tượng”, thấy hình thù dị dạng, mắt trợn, miệng há hốc… là chụp ngay cho cái mũ “Biểu Hiện” v.v… là hết sức phổ biến. Làm như những Ấn Tượng, Biểu Hiện kia chỉ là những công thức cách điệu thuần túy hình thức! Thực tế, không ít họa sĩ cũng đã thực hành các khuynh hướng nghệ thuật này theo cách nghĩ đơn giản như vậy. Họ chạy theo cái mới nhất của thiên hạ nhưng cách nghĩ thì chỉ loay hoay ở ngưỡng Tượng Trưng với… minh họa! Và, “nhai đi nhai lại”...


Cuối cùng, không thể không nói đến, là thái độ trí thức của phê bình. Thái độ trí thức, trước hết, thể hiện ở động cơ và cách thức phê bình. Phê bình, không quảng cáo, không tiếp thị cho ai hết. Nếu phải dùng đến hai chữ quảng cáo với tiếp thị, thì cùng lắm, là cho những cách nhìn, những giá trị nghệ thuật… Phê bình, cũng không phải là chuyện khoe khoang chữ nghĩa, khoe khoang kiến thức. Các lý thuyết mà phê bình mang theo, là thứ ánh sáng giúp soi giải đối tượng - hỗ trợ phát hiện với diễn dịch-chứ không phải là những khung lưới ca-rô cứng ngắt áp vào đối tượng rồi dồn ép hay kéo giản đối tượng sao cho chồng khít...


Thái độ trí thức, tiếp theo nữa, thể hiện ở cung cách ứng xử trước phê bình phê bình. Điểm tựa, hay quyền lực của phê bình, cơ bản, là ở lý lẽ. Và, do đó, cách ứng xử trí thức trước phê bình phê bình, không gì khác hơn là tranh luận dựa trên lý lẽ. Ở Việt Nam, thê thảm, nhiều người đã chọn cách đi… “xì lốp xe”!


Phê bình, luôn là gây hấn. Nhưng, sẽ chẳng có gì đổi mới thực sự nếu không có phê bình. Hơn bao giờ hết, phê bình cần phải được nhận thức lại. Bắt đầu, từ bản thân các nhà phê bình. Phê bình mỹ thuật từ những năm 1980 đến nay, thực chất, chỉ có ý nghĩa thay thế cho kiểu phê bình mang tính “biệt phái” nhân danh cho cái-tôi-chúng-ta bằng kiểu phê bình mang màu sắc ấn tượng chủ nghĩa nhân danh cái-tôi-cá-nhân mà thôi. Và đóng góp của nó, thực chất, chỉ là “phát hiện” lại những tên tuổi đã nổi tiếng từ lâu rồi, là quảng bá cho những giá trị thực ra ai cũng đã biết …





Nguyên Hưng
(2007)








Tham khảo:  

Phê bình bị phê bình nhiều nhất
Nguyễn Bỉnh Quân


1. Nhà phê bình là cái mác quá to, cao và sang đối với những người viết về nghệ thuật. Thực ra anh phê bình chỉ là chuyên gia “ẩm thực nghệ thuật”. Tôi ăn món ấy, ở hàng ấy thấy ngon và “giá cả hợp lý” thì phát ngôn ra cho mọi người biết. Nếu bạn thấy quá đắt không ngon bạn có kiện anh viết giới thiệu không hay chỉ tự “rút kinh nghiệm” thôi? Nhưng nếu khoái khám phá ẩm thực bạn sẽ tìm đến, thậm chí tôn sùng một nhà phê bình ẩm thực nào đó “của mình”.

Báo chí muốn bán cần mục này, nhà hàng cũng cần bán nên mới có anh phê bình. Tự dưng không ai viết phê bình cho riêng mình cả, sự nghiệp của tôi ở các công trình lịch sử và lý luận nghệ thuật cơ! Trong mắt tôi Thái Bá Vân là một nhà phê bình bẩm sinh, rất sành “ăn uống mỹ thuật”. Các nghệ sĩ tôn trọng và người yêu nghệ thuật rất tín nhiệm ông vì “khẩu vị” của ông tinh tế, sành điệu! Người phê bình là người “tâm giao” với tác giả và một vài bạn đọc. Là nhà giáo dục thẩm mỹ của công chúng.

Người phê bình cũng là một nghệ sĩ và có uy lực vô hình. Trời sinh ra ta có cái lưỡi, cái mắt hơn người như trời cho ai giọng ca độc đáo vậy. Thế nên “trời không cho” thì chịu, không học mà có được, không xin hay vay mà có được. Tất nhiên lịch sử, lý luận nghệ thuật và văn hóa chung là nền tảng và khả năng diễn đạt bằng ngôn từ là công cụ không thể thiếu. Thiếu chúng ta không “làm phê bình” được. Nhà phê bình đích thực là thứ rất quý hiếm. Nhưng việc phê bình thì lam lũ, hàng ngày nên 90% phê bình bị phê là dở cũng tất nhiên.

2. Phê bình là hoạt động xã hội, là sản phẩm truyền thông, là công cụ marketing cần/và tất có  hiệu quả văn hóa, xã hội, kinh tế. Các báo, tạp chí trong ngoài nước đặt tôi viết bài, Ti vi, Radio phỏng vấn, các gallery nhờ viết “vài dòng”, các tác giả đề nghị cho “một áng văn chương” để in tờ rơi, thông cáo báo chí hay in vào sách đẹp. Bảo tàng, tổ chức nghệ thuật nước ngoài mời viết, làm curator, dự hội thảo hay chỉ nói lời khai mạc, chấm giải. Công việc của người phê bình độc lập không đơn giản, trách nhiệm vô hình mà nặng. Họa sĩ có anh sau khi được lăngxê quay ra bảo: Bọn phê bình nó chỉ ăn bám vào tài năng của mình! Có mấy họa sĩ trách tôi: Triển lãm để bán mà “bác” viết thế thì sao dùng được! Một ông bạn mắng: Chỉ tại ông viết cho hắn một bài mà hắn “hỏng”, chẳng còn coi ai ra gì nữa! Bạn đọc thì trách: Tranh pháo thế mà ông bốc lên trời! Mấy ông phê bình bẻm mép, nói sao chả được. Cứ có ý nào gai góc, độc đáo thì tòa soạn gạch, gọt đi kèm lời giải thích: Chưa hợp với tình hình. Anh viết thế “trên” trị tôi chết! Ba bề tác giả, công chúng và truyền thông chê trách phê bình là chuyện thông thường. Tôi nghĩ ở đâu cũng khó vậy.

3. Ở ta phê bình được trao quá nhiều nhiệm vụ và trách nhiệm: Làm tuyên giáo triển khai đường lối, nghị quyết, soi đường cho sáng tác, làm cái roi quất cho con ngựa sáng tác lồng lên, làm lính gác cho Đảng, giáo dục quần chúng vv và vv. Một vị “quan văn nghệ” từng mắng: Anh phụ trách phê bình mà không chỉ đạo cho anh em phê bình viết cái gì, viết thế nào, viết tác giả, tác phẩm nào thì không xứng đáng làm lãnh đạo. Tôi đành nhận mình không biết lãnh đạo. Một họa sĩ lão thành căn dặn: Phê bình phải như đại bàng nhìn xa, chỉ đường cho sáng tác đi tới. Tôi đùa mà thật: Nếu biết phải vẽ gì, vẽ thế nào thì em vẽ lấy chứ “dại gì” mà chỉ cho các bác!. Còn chuyện làm roi quất ngựa hay làm lính gác mà nhiều “nhà lý luận phê bình” thường nhắc nhở tôi thì tình thực là tôi không làm được. Thế nên tôi hốt hoảng khi Chủ tịch một Hội Trung ương nói trên báo rằng: Hội đồng lý luận phê bình Trung ương phải như cảnh sát 113!

Tôi nghĩ nếu không bỏ được các “bệnh ấu trĩ” trên thì phê bình còn khổ, bị “mắng oan” dài dài. Những nhiệm vụ và trách nhiệm đó phê bình đích thực, phê bình độc lập không làm/chịu được. Phê bình sẽ có tính tư tưởng, có tác động chính trị -xã hội, có tính Đảng hơn nếu nó không bị coi là công cụ thô thiển mà là một sản phẩm văn hóa, một tác phẩm nghệ thuật của một cá nhân sáng tạo dành cho người dân, chính quyền, nghệ sĩ và xã hội tiêu dùng, hưởng thụ hay sử dụng như các sản phẩm sáng tạo khác.

4. Phê bình mỹ thuật đã phát triển vượt bậc.
Có thể nói chỉ từ những năm 1980 mới thực sự có phê bình mỹ thuật. Môn này ra đời nhờ sự trợ giúp của truyền thông và chính nó đã đóng vai trò tích cực làm cho mỹ thuật đi đầu, khởi xướng đổi mới văn nghệ ở ta. Một lợi thế nữa là khi đó lãnh Đạo Đảng đã lắng nghe người phê bình, không coi họ là công cụ hay “nhân viên, cán bộ” mà là các chuyên gia.

Trong 25 năm qua số đầu sách nghiên cứu mỹ thuật tăng vọt. Số sách tranh có phê bình mỹ thuật lên tới hàng vài trăm cuốn. Mỹ thuật đã vào thư viện mỗi nhà. Hàng ngàn trang viết liên tục tràn  ngập báo chí trong nước và có hàng chục bài in trên các ấn phẩm nước ngoài. Các tác giả Thái Bá Vân, Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Vĩnh Phối, Nguyễn Trung, Trịnh Cung... Phan Cẩm Thượng, Lương Xuân Đoàn, Phan Thanh Bình, Trần Lương, Trần Hậu Tuấn... Trần Hậu Yên Thế, Lê Thiết Cương, Bùi Như Hương, Phạm Trung, Vũ Lâm, Trang Thanh Hiền, Nguyễn Trung Tín, Như Huy... và nhiều người khác đã cùng các biên tập viên mỹ thuật đóng góp những công trình, bài báo làm cho mỹ thuật trở thành một bộ phận năng động của đời sống văn hóa và học thuật. Dù “vàng thau lẫn lộn”, 90% là dở nhưng 10% còn lại là những sản phẩm tinh thần có giá trị, nhất là so với sự vắng mặt tuyệt đối của phê bình mỹ thuật trước Đổi Mới. Phê bình mỹ thuật đang trưởng thành trong khi phê bình văn học đã trở nên quá cồng kềnh, có phần già cỗi còn phê bình của các nghành khác mới đang phôi thai.

“Có nghĩ về chúng tôi, xin độ lượng!” (B. Brecht)




(Tia Sáng số tháng 9-2007)

Không có nhận xét nào: