Trong một thư riêng gởi tôi mới đây, một họa sĩ trẻ Việt Nam thuộc hàng thành đạt-hiện đang sống tại
thành phố Hồ Chí Minh-đã viết: “…Đúng là
công chúng Việt Nam
chưa bao giờ được giáo dục một cách đàng hoàng về nghệ thuật. Và, cũng đúng là
các thiết chế văn hóa mỹ thuật ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn còn có quá nhiều
điều bất cập… Nhưng tất cả những điều đó không phải là lý do đủ để khẳng định
rằng mỹ thuật đương đại Việt Nam đang yếu kém, lạc hậu. Thực tế là có không ít
nền nghệ thuật tuy sống trong một xã hội có chế độ chính trị hà khắc, mặt bằng
dân trí thấp và kinh tế lạc hậu nhưng vẫn đặc sắc, hùng cường. Mỹ thuật đương
đại Việt Nam
chỉ bị chính đồng bào mình rẻ rúng, coi thường thôi. Trong khi đó, bạn bè quốc
tế trân trọng. Nói mỹ thuật đương đại Việt Nam yếu kém, lạc hậu, các nhà phê
bình giải thích làm sao chuyện có khá
nhiều họa sĩ Việt Nam đã được không ít nhà buôn tranh nước ngoài săn đón, đã
được mời đi triển lãm, các trại sáng tác ở nước ngoài, kể cả trong một số Biennale
khá uy tín…”
Không phải lần đầu tiên, đây là ý kiến, trong mấy năm qua, tôi đã
từng nghe. Nhiều người, kiểu này kiểu khác, ở nơi nọ nơi kia cũng đã phát biểu
với nội dung tương tự. Điểm chung lớn nhất trong cách nghĩ như vậy là không có
sự vận động của lý trí, của tinh thần phê phán mà, chỉ có những niềm tin hết sức
nông nổi, hời hợt. Dễ thấy trong đó có hai niềm tin lớn: Thứ nhất, tin,
sự hưng thịnh của một nền nghệ thuật chỉ
phụ thuộc hoàn toàn vào giới sáng tác, và giới sáng tác, chẳng chịu sự chi phối,
ảnh hưởng gì từ quan hệ với công chúng đến các vấn đề văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, tin, sự “trân trọng của bạn bè
quốc tế” v.v… là cái gì có giá trị hiển nhiên chứng minh mỹ thuật đương đại
Việt Nam
không yếu kém lạc hậu chút nào…
Có thể nói ngay, niềm tin thứ nhất, chỉ thể hiện sự ngưng đọng
trong nhận thức, đã hết sức lạc hậu. Thực chất là sai lầm. Đúng là sự hưng
thịnh của một nền nghệ thuật không phụ thuộc vào các thể chế chính trị, cũng
như không tất yếu gắn liền với các giai đoạn phát triển kinh tế…, tuy nhiên,
trừ thời cổ đại và ở những nền nghệ thuật ít nhiều mang dấu ấn thời cổ đại, bao giờ cũng gắn liền với sự bùng phát của
những niềm tin mới trong xã hội được dẫn
dắt bởi một cách thức tư duy mới mẻ nào đó. Không cần phải nhìn đâu cho
xa xôi vào lịch sử nghệ thuật nhân loại, mà chỉ cần nhìn lại thành tựu chóng
vánh của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn Đông dương và cái sự “tưởng như
là thành công” của mỹ thuật Việt Nam giai đoạn đầu “đổi mới” cũng đủ để thấy
ngay điều này. Hãy thử xem, cái gì đã làm cho, kể từ khi trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông dương ra đời ở Hà Nội năm 1925, chỉ vài năm sau, mỹ thuật hiện đại
Việt Nam đã xây được nền móng với vài tên tuổi, như Nguyễn Gia Trí, Nguyễn
Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn v.v…,
mà cho đến nay, còn được xem như là những tượng đài, là niềm tự hào, và
vẫn còn tiếp tục gây ảnh hưởng…? Cho đó là thời kỳ nở rộ đột xuất của các tài
năng nghệ thuật như nhiều người đã giải thích chăng? Nói vậy, hoặc chỉ do “ngớ
ngẩn” hoặc chỉ do né tránh. Bất cứ ai có chút hiểu biết về lịch sử và văn hóa
Việt Nam hiện đại đều có thể thấy ngay, không có “đột xuất”, không có bất ngờ
hay ngẫu nhiên gì cả. Đó là chiến thắng của một hệ hình văn hóa, mà thành tựu
mỹ thuật chỉ là một thành phần. Cứ nhìn rộng ra cả các lãnh vực khác như văn
học, âm nhạc, sân khấu… ở đầu thế kỷ, có thể thấy ngay, đó là giai đoạn chín muồi của nền
văn hóa Tây học ở Việt Nam với sự ăn sâu của chủ nghĩa nhân bản (humanism) và
chủ nghĩa thực chứng (positivism) mà sản phẩm là sự lên ngôi cùng khắp của ý
thức về cá nhân và tinh thần phê phán-lãng mạn chủ nghĩa. Chính sự lên ngôi cùng khắp của ý thức về cá
nhân và tinh thần phê phán-lãng mạn chủ nghĩa đã kích hoạt không chỉ cho sự
vận động mang tính đáp ứng nơi giới sáng tác -như đã biết- mà còn cho sự
hình thành cả một cộng đồng diễn dịch có khả năng tiêu thụ và thẩm định nghệ
thuật. Tất cả chộn rộn trong “tinh thần cách mạng” nâng đỡ và thúc đẩy lẫn
nhau… (Xin lưu ý, “thành tựu” của mỹ
thuật Việt Nam
giai đoạn Đông dương, về mặt ý nghĩa, chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải được
tiếp tục đào sâu, thảo luận. Ở đây, tôi chỉ ghi chú sự “thành tựu” như một hệ
thống mang tính thể chế ở góc nhìn hiện tượng mà thôi.)…
Còn giai đoạn đầu “đổi mới”? Cho đến nay, nhiều người vẫn cho đó
là một khúc quanh quan trọng trong sự vận động đổi mới của mỹ thuật Việt Nam .
Thực ra, chỉ là ảo tưởng. Bất cứ ai làm công việc thống kê sự kiện một cách hệ
thống và đánh giá khách quan, đều dễ dàng nhận thấy, “đổi mới”, thực sự chỉ có trong bối cảnh. Đúng là bối
cảnh xã hội đổi mới đã mang lại những niềm tin mới, kích thích những nhiệt tình
mới, và trong một chừng mực nhất định, đã tạo ra được những điều kiện thuận lợi
cho mọi trình hiện nghệ thuật. Tuy nhiên, đáng tiếc, nó không được soi sáng bởi
một cách nhìn nào thực sự mới mẻ. Thay
vào đó, chỉ là những phản ứng mang màu sắc hậu thuộc địa” và “hậu bao cấp” đầy
cảm tính. Thậm chí có thể nói là mông muội. “Chiến lược văn hóa làng” với
chủ trương “đi lên hiện đại từ truyền thống” được đề ra, trong lãnh vực mỹ
thuật, xem ra không có chút giá trị gì tích cực. Không thuyết phục được ai: Một
mặt, chỉ tạo nên khoảng trống tư tưởng, khiến cho ngay ở những người thuộc hàng
tài năng nhất cũng bị mất phương hướng (và niềm tin) để trôi vào cơn lũ thị
trường và sự huyễn hoặc của cái nhìn “dĩ Âu vi trung”- thực tế đã quá lạc hậu.
Mặt khác, chỉ thúc đẩy nhanh quá trình “lại gạo”- bình dân hóa, nghiệp dư hóa - của cả nền mỹ thuật Việt Nam, làm rối
tung tất cả, khiến cho các cảm nhận về năng lượng nơi con người sáng tạo cũng
trở nên mù mịt. Trong số những tên tuổi được xem là đổi mới trong lãnh vực mỹ
thuật, không ai nêu lên được một quan điểm hay một thái độ mỹ học nào mới mẻ.
Công lớn nhất của một số cây bút phê bình là phục hồi uy tín của những tên tuổi
đã vang lừng từ lâu: những Sáng, Phái,
Nghiêm, Liên…, và đi xa hơn một chút, ủng hộ các trình hiện nghệ thuật mang
tính cá nhân v.v… Về phương diện sáng tác, ngay cả một số họa sĩ thành danh
trong giai đoạn này như Đặng Xuân Hòa, Trần Lương, Hà Trí Hiếu, Thành Chương,
Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Trung Tín, Nguyễn Tấn Cương, Đỗ Hoàng Tường, Trần Văn
Thảo v.v… có thể nói là “trúng mánh” nhờ bối cảnh “đổi mới” hơn là do những gì
họ thực sự đóng góp. Có chút gì đó hơi nghiệt ngã ở đây, nhưng đó là sự thật.
Còn niềm tin thứ hai, không gì khác hơn, chỉ thể hiện mặc cảm lạc
hậu và đủ các loại tâm lý “hậu thuộc địa” khác mà thôi. Chẳng lẽ sự trân trọng
của “bạn bè quốc tế”, sự săn đón của các nhà buôn tranh nước ngoài, và cả sự có
mặt của khá nhiều họa sĩ trong các trại sáng tác, các cuộc triển lãm, các liên
hoan nghệ thuật quốc tế v.v… đã là những cơ sở hết sức vững chắc để khẳng định
mỹ thuật đương đại Việt Nam không yếu kém, không lạc hậu chút nào? Không chắc.
Cũng cần lưu ý, bao năm qua, không ít người quan sát và quan tâm đến mỹ thuật
Việt Nam -ở trong và ngoài
nước- đã nêu ra ra câu hỏi: “Cái gì đã khiến cho các họa sĩ Việt Nam có được
nhiều thuận lợi hơn các đồng nghiệp nước ngoài như thế? Tại sao tranh họ bán
được nhiều đến thế? Cái gì ở họ đã khiến cho các nhà tổ chức triển lãm ở nước
ngoài chú ý, mời gọi?...” Và họ, dần dần, đã có câu trả lời. Các câu trả lời
được phát biểu khá tản mác và đa dạng, ở đây, tôi chỉ nêu lại một số ý đáng chú
ý nhất:
Một, trên thị trường, mỹ thuật Việt Nam “đi xa và nhiều” nhất là tranh
- một thứ ít bị ngáng bởi dị biệt ngôn ngữ và có tính vật thể. Giá lại ở mức
sàng sàng bình dân. Với người nước ngoài đi du lịch đến Việt Nam , tranh là một món quà lưu niệm vừa chuyển
tải cái đặc dị văn hóa Việt Nam
nhất, vừa hợp túi tiền… Ở một khía cạnh khác, ngôn ngữ và phong cách hội họa mà
các họa sĩ Việt Nam sử dụng một cách phổ biến - như Ấn tượng, Tượng trưng, Biểu
hiện hay Siêu thực…- vốn là những gì đã được phổ cập ở các nước phát triển, ai
cũng có thể cảm nhận được. Thêm nữa, cái tinh thần mà nó chuyên chở lại khá
hiền lành, vừa như rất cụ thể vừa mơ mơ hồ hồ, vừa vặn phù hợp với các cảm nhận
lớt phớt bị chi phối bởi sự tò mò về lịch sử và văn hóa Việt Nam, kể cả sự chi
phối của những định kiến về các giá trị đặc trưng châu Á-vừa như những ngộ nhận
vừa manh tính thời thượng phổ biến ở Tây phương một thời gian…
Hai, ngay cả sự thuận lợi trong việc “đi ra” của các họa sĩ thực
hành các hình thức nghệ thuật được cho là “đương đại” ở Việt Nam như
Installation, Performance, Body art v.v… cũng có không ít những nguyên do bên
ngoài nghệ thuật. Một mặt, gần như có sự ưu ái có hơi hướm “siêu thực dân” tồn
tại tự nhiên trong tâm lý không ít người Tây phương - xem nghệ thuật Tây phương
là trung tâm nghệ thuật thế giới, nơi ban phát các chuẩn mực. hầu như không có
người Tây phương nào không nhận thấy, nghệ thuật Tây phương là vùng ảnh hưởng
“truyền thống” đối với mỹ thuật Việt Nam và không kém logic chút nào khi họ
thấy mỹ thuật việt Nam quả đúng là lạc hậu! Họ sẳn sàng ủng hộ-vô tư, đầy thiện
chí-nhất là khi các họa sĩ Việt Nam ,
đa số, đều tỏ ra “dễ thương” và cũng đang nóng lòng muốn “hòa nhập”, muốn sớm
thành “đương đại” v.v… Mặt khác, cũng có thể xem là tất yếu, khi mà các
Biennale, các Documenta…, càng ngày, thực chất, càng có dáng dấp là những sự
kiện vừa thể hiện ý thức chính trị và văn hóa nhấn mạnh tính thống nhất trong
sự đa dạng của các vấn đề “toàn cầu hóa”…, vừa nhắm đến các mục tiêu tiếp thị
quốc gia hay địa phương…
v.v…
Nói chung, sự rộn ràng của thị trường mỹ thuật Việt Nam trước đây,
và sự “ủng hộ quốc tế” đối với các hình thức “đương đại” của mỹ thuật Việt Nam
hiện nay, tuy rất cần thiết, nhưng thực tế, chẳng chứng minh được gì cho “bản
lĩnh sáng tạo Việt Nam”. Nhìn quanh, ai cũng dễ dàng nhận thấy, để bán được
tranh, để được “bạn bè quốc tế” đón nhận, các họa sĩ chỉ cần bớt “nghệ sĩ” đi
một chút, bớt “sáng tạo” đi một chút, cứ theo “tinh thần phục vụ mà làm” là…
xong!
*
Những cách nghĩ, những định kiến che chắn tầm nhìn, cản trở mọi ý
hướng đổi mới như trong ý kiến tôi trích dẫn và thử mổ xẻ sơ lược ở trên, trong
làng mỹ thuật Việt Nam ,
là nhiều vô cùng. Chúng chỉ cho thấy sự đứt gãy, vỡ vụn trong tư duy nơi khá
đông họa sĩ. Và, hoàn toàn không khó khăn gì để thấy, đó cũng chỉ là sản phẩm
từ não trạng “người ở làng”. Mà “làng”, lại là “làng hậu thuộc địa”, “làng
hậu bao cấp” vừa nghèo truyền kiếp
vừa trải qua thời gian dài tách biệt với thế giới bên ngoài đã trở nên quá lạc
hậu và còn mang trong mình rất nhiều thương tích, mặc cảm dẫn đến tâm lý vừa cả
tin vừa bảo thủ, vừa muốn hòa nhập vừa tự tách biệt…, chưa được chữa chạy… Phần
lớn họa sĩ Việt Nam
chưa được chuẩn bị về tư tưởng và tâm lý để thâu nạp và dung hóa những thành
tựu mới mẻ của nghệ thuật nhân loại. Thậm chí, ở họ, còn chưa thể nói được gì
về “cái bản lĩnh tự do nơi con người sáng tạo”… Với tâm lý, với não trạng như
thế, thì cho dù, phía các nhà quản lý có “bật đèn xanh”, phía “bạn bè quốc tế”
có mở rộng vòng tay chào đón, thì các nghệ sĩ, chắc chắn, cũng sẽ chẳng lê được
bao nhiêu bước ra khỏi “cái làng của mình”. Không chừng, còn chạy quay về, núp
vào chum, vào vại, vào xó bếp, góc sân mà “sáng tạo”, mà tự vỗ về “mình vẫn là
mình” trong bối cảnh “hoàn cầu hóa” “ghê lắm”, đã nuốt chửng, đã hòa tan tất
cả!
Nguyên Hưng
(2005)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét