Hội Mỹ thuật Việt Nam có số lượng hội viên lên đến
năm, bảy nghìn họa sĩ. Sinh hoạt mỹ thuật trong nước, nhìn chung, nhộn nhịp.
Hàng năm, ở cấp quốc gia, có ba, bốn giải thưởng mỹ thuật lớn. Còn triển lãm, ở
Sài Gòn, Hà Nội, tháng nào cũng có vài ba cuộc. Hoạt động gallery khá rộn ràng
- kẻ mua người bán, cũng "giao lưu với hội nhập"... Và, báo chí cũng
thường xuyên có những bài viết về mỹ thuật v.v... Tuy nhiên, nền mỹ thuật Việt Nam
hiện đại thì oái oăm, dường như không thực sự tồn tại.
Không thực sự tồn tại. Bởi, thứ
nhất, nó hầu như không
có công chúng trong nước. Hoặc có, cũng rất ít. Các cuộc triển
lãm, thường, rất ít người đến xem. Mua tranh, cho đến nay, chủ yếu vẫn là người
nước ngoài. Và tranh được bán, được mua, phần lớn, cũng thuộc hàng commercial
painting (tranh vẽ hàng loạt), ít có ý nghĩa khích lệ cho sự tìm tòi, sáng tạo.
Còn các bài viết về mỹ thuật trên các báo, thực tế, chẳng có mấy người đọc.
(Bởi vậy mà người viết cứ viết, tha hồ tung hứng...) Nhiều người, rất nhiều
người Việt Nam
không biết gì về mỹ thuật nước mình - vài cái tên họa sĩ biết được, chủ yếu là
do đọc tình cờ trên báo chí... Thứ hai, nó hầu như chẳng có tác động gì đến sự vận động,
phát triển của nền văn minh thị giác Việt Nam . Các nhà thiết kế
trong các lãnh vực mỹ thuật ứng dụng, khi đi tìm những chất liệu mới, những kỹ
thuật mới, và cả những tiêu chuẩn thẩm mỹ mới cũng chẳng mấy khi nhắm vào nó.
Ðể có vẻ dân tộc, họ tìm về nguồn nghệ thuật dân gian. Ðể có vẻ hiện đại, họ
lật ngay sách vở ngoại nhập. Tất cả những gì đang có trong thế giới sự nhìn
Việt Nam ,
nếu không phải là đồ theo kiểu xưa, thì cũng theo kiểu Tây, kiểu Tàu, kiểu
Nhật... Ai cũng nói về tính dân tộc này nọ trong mỹ thuật, nhưng chẳng có ai chỉ ra được
những cái mã (codes), những qui ước văn hóa thực sự mang bản sắc Việt Nam trong
ngôn ngữ tạo hình... Ðến nay, vẫn loanh quanh một kiểu nói chung
chung, mơ hồ. Thứ ba, nó hầu như không
kích thích được nhiệt tình sáng tạo nơi các họa sĩ, không sản sinh ra nổi các
lực lượng họa sĩ kế tiếp. Không ít họa sĩ đã thú nhận không biết
khai thác năng lượng ở đâu cho sự sáng tạo. Trước mắt họ, mỹ thuật Việt Nam là
một chuỗi liên tiếp những truyền thống dở dang. Những biến thiên của thời cuộc
với những xoáy lốc cơ luận đến từ bên ngoài tác động đến cả nền văn hóa học
thuật đã mang đến những truyền thống thay thế liên tiếp này. Và, khi mà mỗi một
sự thay thế đồng nghĩa với một sự đứt gãy thì sự tồn tại như đánh đu giữa những
truyền thống dở dang của mỹ thuật Việt Nam hiện tại có thể xem là hệ quả
đương nhiên. Nói chung, không có được nguồn năng lượng nội tại thì cũng không
hy vọng làm được điều gì mới mẻ. Các họa sĩ, hoặc lặp đi lặp lại chính mình,
hoặc lặp đi lặp lại người khác. Các giải thưởng mỹ thuật hàng năm, quanh đi
quẩn lại cũng bấy nhiêu gương mặt. Chưa kể, các khuynh hướng nghiệp dư ngày
càng lấn lướt, lan tràn...
Thực trạng nêu trên đã nằm trong
nhận thức của nhiều họa sĩ, và rất nhiều câu hỏi "tại sao?" đã được
nêu ra. Tuy nhiên, dường như, tất cả đều chỉ dừng lại ở sự thừa nhận: "Ðể
làm nghệ thuật đã khó, để có được một nền nghệ thuật dân tộc-hiện đại lại càng
khó hơn. Ðiều này đòi hỏi các họa sĩ phải cố gắng rất nhiều..."
Sự thực, để có được một nền mỹ
thuật Việt Nam hiện đại, không chỉ cần sự cố gắng của mỗi họa sĩ, mà thực tế,
cần hơn hết, sự thay đổi trong cách tiếp cận nghệ thuật của cả cộng đồng, bao
gồm cả giới sáng tác lẫn giới phê bình, lý luận và giới thưởng ngoạn. Cách tiếp
cận ấy phải đụng phạm đến toàn bộ nền móng của nền mỹ thuật, đến các cơ sở tồn
tại và phát triển của nó - từ các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến các nhận thức
về ý nghĩa, giá trị nghệ thuật v.v... Nói cách khác, là phải tiếp cận từ cội
nguồn văn hoá xã hội và cơ sở học thuật của nó....
Thực ra, tiếp cận mỹ thuật từ tổng
thể văn hoá mỹ thuật, ở Việt Nam ,
không phải là chuyện mới mẻ. Ít nhất cũng có một Lê Thanh Ðức được xem là
"chuyên gia" qua các bài viết về "Văn hoá thị giác",
"Văn hoá tạo hình" và "Vấn đề toàn cầu hoá" v.v... đăng nơi
này nơi kia và gây ra tranh cãi trong vòng hai năm qua. Không mới, nhưng rất
tiếc cho đến nay, vẫn chưa có công trình phê bình nào theo hướng này đáng kể.
Ngay ở Lê Thanh Ðức, tuy có nhiều tâm huyết, nhiều thiện chí, chịu khó đọc,
chịu khó nghĩ, nhưng có lẽ, bởi không thực sự mạnh về lý luận, đặc biệt, dường
như, kiến thức cơ sở lý luận không cập nhật, hoặc có mà không đến nơi đến chốn,
để cho nhãn quan nghệ thuật vẫn lẩn quẩn trong chủ nghĩa nhân bản (humanism)
và chủ nghĩa thực
chứng (positivism) tiếp thu từ nền văn hoá Pháp vốn đã lạc hậu,
cộng thêm sự chi phối của tâm lý thích ở "tầm cao" nên sự tiếp cận
của ông còn có
khá nhiều bất cập, và các
nhận định, khái quát thường rơi vào võ đoán đầy mâu thuẫn.
Với những hạn chế như vậy, các bài viết đầy tâm huyết, đầy thiện chí nói trên
của ông trở nên phản tác dụng. Không chỉ không thể soi sáng cho thực trạng
khủng hoảng hiện nay, kích thích nhiệt tình sáng tạo nơi các nghệ sĩ mà còn làm
cho vấn đề càng trở nên rối mù, gây nên những hục hặc không đáng có, làm nản
lòng mọi người.
Xưa nay, khi bàn đến chuyện thịnh
suy của một nền mỹ thuật, chúng ta thường chỉ chú tâm đến công việc sáng tạo
của người nghệ sĩ, đến tác phẩm của họ. Hoạ hoằn mới đề cập đến phê bình. Còn
về công chúng mỹ thuật thì dường như là tuyệt nhiên không. Sự tuyệt nhiên không
này là một sai lầm. Thậm chí có thể nói là sai lầm tai hại nhất làm cản trở sự
phát triển bình
thường của một nền mỹ thuật. Ðiều này hoàn toàn dễ hiểu. Bởi, có chú tâm phân loại,
phân tầng công chúng mỹ thuật thì mới có cơ sở phân định rõ hệ thống giá trị
nghệ thuật trong một chỉnh thể văn hoá mỹ thuật. Và từ đó, mới có cơ sở hoạch
định chiến lược phát triển mỹ thuật.
Sự không thật tồn tại của mỹ thuật
Việt Nam hiện đại, thực sự là hậu quả của cách nhìn đã trở nên vừa mơ hồ vừa hàm hồ về
cái được gọi là "công chúng mỹ thuật" của chúng ta trong nhiều năm
qua (trở nên, bởi cách nhìn nào cũng có quãng đúng sai khả dĩ). Khi đã xem công chúng
mỹ thuật là khối đông thuần nhất chúng ta vô tình phá vỡ cấu trúc chỉnh thể tự
nhiên của một nền văn hoá mỹ thuật. Ai cũng biết, một nền mỹ
thuật thực sự tồn tại là tồn tại như một chỉnh thể văn hóa mỹ thuật. Ở đó,
những giá trị mới mẻ - từ chất liệu, kỹ thuật đến tiêu chuẩn thẫm mỹ - không
ngừng được khai phá. Và, những giá trị đó được định hình trong, đồng thời góp
phần làm phong phú thêm, những định
chuẩn,
những cái mã
(codes) riêng biệt của một nền văn hóa. Chỉ với sự tồn tại như vậy, bản thân
nền mỹ thuật mới có được nguồn năng lượng thực sự - mang tính nội tại - cho sự
vận động, phát triển. Và, mới bảo toàn được năng lượng trong sự vận động, phát
triển đó. Ðây là một bài học của lịch sử. Nhìn ra thế giới, bất cứ ai cũng đều
dễ dàng nhận thấy, mọi nền mỹ thuật có sức sống đều tồn tại trong một chỉnh thể
như thế. Chỉnh thể tự nhiên có mô
hình kim tự tháp, mà đỉnh
là những tìm tòi sáng tạo mang tính tiên phong, độc sáng của các thành phần ưu
tú. Và đáy,
là đại chúng với khả năng tiêu thụ và sản xuất. Ðỉnh và đáy có quan hệ hữu cơ.
Ðỉnh chỉ lên cao khi đáy không ngừng được mở rộng. Và đáy chỉ mở rộng khi những
giá trị mang tính bác học tìm thấy ở đỉnh được chuyển hóa thành những giá trị
mang tính phổ cập làm nguồn dinh dưỡng bồi bổ cho đáy. Chính nhờ những mối quan
hệ này mà những giá trị mỹ thuật được chuyển hóa thành những giá trị văn hóa.
Và cũng chính nhờ những mối quan hệ này mà những giá trị văn hóa mang tính
truyền thống được tích hợp, biến đổi trong những giá trị mỹ thuật làm nên những
truyền thống (văn hóa) mới thích nghi với thời đại v.v... Khi đã phá vỡ cấu
trúc chỉnh thể tự nhiên với các mối quan hệ hữu cơ này, chúng ta chỉ có thể sa
lầy từ hết sai lầm này đến sai lầm khác, từ thảm bại này đến thảm bại khác mà
thôi. Khi đề nghị "sáng tác phải thật gần với công chúng, phải làm sao cho
công chúng có thể cảm thụ ngay được" chúng ta đã làm công việc kéo họa sĩ xuống,
mà cũng chẳng nâng
được công chúng lên. Còn với nhận định "Tác phẩm đã thực sự
thành công, bởi đã thu hút được sự chú ý của đông đảo công chúng", lấy đó
làm tiêu chuẩn định giá nghệ thuật, chúng ta đã vô tình cản trở sự tìm tòi sáng
tạo nơi các họa sĩ và tạo đà cho tâm lý dị ứng với cái khác lạ nói chung v.v...
Ðây là điều có lẽ không cần chứng minh nữa. Cho đến nay, chúng ta đã chẳng có
những cá nhân xuất chúng mà ngay cả công chúng mỹ thuật thực sự chúng ta hầu
như cũng không có. Khi lên tiếng báo động về sự chi phối, lũng đoạn của uy lực
đồng tiền, của khuynh hướng "toàn cầu hóa" này nọ lên các họa sĩ và
về sự xâm lấn, tràn ngập của các loại hình "văn hoá - Karaoke" v.v...
xem như, chúng ta đã thừa nhận sự thảm bại của mình. Ít nhất, cũng là thừa nhận
sự yếu kém ít khả năng miễn dịch, khả năng tự đề kháng.
Cách nhìn mơ hồ và hàm hồ về công
chúng mỹ thuật như thế không chỉ tạo ra môi trường không thuận lợi cho sáng tác
mà còn kéo theo cách
nhìn sai lệch về phê bình, hạn chế hoá tầm nhìn phê bình. Dễ
thấy, khi đã xem công chúng mỹ thuật là một khối đông thuần nhất, chúng ta đồng
thời mặc định
một hệ thẩm mỹ với những điển phạm, qui phạm chỉ có thể mang màu sắc duy ý chí
(Bởi chỉ khi phớt lờ vấn đề bản chất của sự cảm thụ nghệ thuật và sự phân hóa
tự nhiên của các thành phần xã hội, chúng ta mới có thể xem công chúng mỹ thuật
là một khối đông thuần nhất). Với
hệ thẩm mỹ mặc định đó, tiếng nói của phê bình chỉ còn là sự hồi âm, diễn giải
hay "cảnh báo". Phê bình bị rơi vào thế tuỳ phụ.
Bởi vậy, khi xã hội "mở cửa", trước sự tương tác của các nền văn hoá
khác, các nền nghệ thuật khác, và trước thực tại, mọi hệ thẩm mỹ
và mọi phương pháp sáng tác đều cần phải được xét lại thì điều đó đã
vượt ra ngoài khả năng của phê bình, ít nhất cũng là của nhiều nhà phê bình.
Phê bình mỹ thuật trong nước không quen và thực tế không được chuẩn bị cho sự phê bình lý thuyết,
phê bình học
thuật và do đó, khó
lòng mang vác nổi nhiệm vụ khai phá, dọn đường... Bởi vậy hoàn
toàn không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, với giới sáng tác, phê bình là
"cái đi sau", thậm chí là "cái ăn theo" - "có sáng
tác, có tác phẩm, có tất cả rồi mới có phê bình". Nhiều người, còn đi xa
hơn, cho phê bình là cái gì phù phiếm. Có người không thèm đọc các bài viết phê
bình, không thèm quan tâm đến phê bình.
Thực trạng khủng hoảng của mỹ thuật
Việt Nam
sẽ không được hóa giải, nếu không có một sự phản tỉnh triệt để - ngay từ cội rễ
văn hóa, xã hội của nó. Sẽ không có gì nếu không có phê bình. Tất cả những gì
chúng ta cần làm hiện nay là củng cố phê bình. Trước mắt, phê bình cần phải
được phê bình. Cần tạo môi trường dân chủ cho phê bình.Và, cần phải xây dựng cơ
sở học thuật vững chắc cho phê bình.
Nguyên Hưng
(2000)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét