Trong bài viết ngắn về Nguyễn Sáng
qua mắt nhìn Thái Bá Vân đăng trên Thể
thao & Văn hóa (tháng 10 năm 2001) nhà thơ Thanh Thảo đã kết
luận như đinh đóng cột - đại ý - phải
thật gần, thật hiểu tác giả, nhà phê bình mới có được những câu chữ thuyết phục
đến vậy! Chưa cần biết Thái Bá Vân nhìn Nguyễn Sáng đúng, sai như
thế nào, nhưng điều có thể nói ngay, cái kết luận của Thanh Thảo là liều.
Liều, bởi không chắc đúng. Thực tế, nhiều khi tác giả là người như thế này,
nhưng tác phẩm lại như thế khác. Trong nghệ thuật, tài với đức, với ý thức công dân,
với tinh thần trách
nhiệm, với sách
vở bồ bồ, và cả với tay
nghề thuần thục v.v... chưa chắc đã có gì ăn nhập. Bám theo tác
giả, nghe theo tác giả, phê bình rất dễ sa vào khuynh hướng tán tụng, thù tạc,
rất dễ mắc bẫy huyền
thoại. Không ít họa sĩ nổi tiếng "oan" là vì thế. Và,
cho dù có rất nhiều bài viết gọi là phê bình, nhưng công chúng, số đông, vẫn
không hiểu gì nhiều về mỹ thuật, vẫn cứ phải "kính nhi viễn chi" cũng
là vì thế.
Ðể phê bình thực sự, trước hết, cần
phải tránh xa tác giả.
Chỉ có một đầu mối duy nhất cần được tiếp cận: tác phẩm. Bởi, trong nghệ
thuật, chỉ tác phẩm mới thực sự tồn tại. Tác phẩm "nói lên". Và, sự
"nói lên"
này, trong phần lớn trường hợp, vượt khỏi tầm kiểm soát của tác giả. Giữa ý
thức tác giả và tác phẩm bao giờ cũng có một khoảng cách. Ðiều này có nguyên
do. Ðành rằng, tác giả là người tạo ra tác phẩm, nhưng chính hắn, lại là sản
phẩm của văn hóa, của lịch sử. Có nhiều điều nằm sâu trong tiềm thức, chế định
tầm nhìn, cách nhìn và ngôn ngữ của hắn, mà hắn, nếu không thường xuyên phản
tỉnh trong ý thức khôi phục và bảo toàn tự do - nhân tính nơi mình sẽ chẳng hề
hay biết.
Không ít họa sĩ đã thừa nhận, phải rất lâu sau khi sáng tác, hay qua phê bình,
mới hiểu được phần nào tác phẩm của chính mình...
Tác phẩm "nói lên", nhưng để
"nghe"
được nó, quả thực, không phải là chuyện dễ dàng. Nghệ thuật khác nhau ở những
vùng văn hóa khác nhau. Và khác nhau qua từng thời đại. Không hề có một tiêu chuẩn chung, một hệ
qui chiếu chung, một căn cứ lý thuyết chung nào cho phê bình. Mỗi
cái khác, khác
nói trên đều có cơ sở mỹ học của nó. Không thể lấy các tiêu chuẩn của nghệ
thuật cổ điển
để xem tranh ấn
tượng; không thể lấy các tiêu chuẩn của nghệ thuật hiện thực
hay lãng mạn
để xem tranh trừu
tượng hay lập
thể v.v... Nói chung, để "nghe" được tác phẩm,
để có thể phê bình, ngoài sự nhạy cảm điều dứt khoát là cần phải học. Tất nhiên
có nhiều cách học khác nhau, nhưng bằng cách nào thì cũng phải học thực sự. Người nào biết được
nhiều lý thuyết hơn sẽ có cơ may cảm thụ tốt hơn, dễ chấp nhận cái mới lạ hơn
và có khả năng diễn dịch rộng rãi hơn. Không thể thuần tuý
trông cậy vào trực giác, cảm nhận. Ðó là một ảo tưởng. Thực tế, không có sự cảm nào
mà không tuỳ thuộc vào sự biết,
sự hiểu...
Lạ, là cho đến nay, ở Việt Nam,
không chỉ riêng quảng đại quần chúng, mà ngay các họa sĩ, và cả giới phê bình,
tiếp cận tác phẩm mỹ thuật, chủ yếu vẫn phải trông cậy vào trực giác, cảm nhận. Dễ
thấy, bởi sự trống
vắng lý thuyết hầu như hoàn toàn. Sách vở không có là chuyện đã
đành, mà ngay trong môi trường đại học, kể cả nơi các trường đại học chuyên
ngành, vấn đề lý thuyết vẫn là bất cập...
Trước đây, chúng ta có nhiều lý do
để an tâm bất cần lý thuyết. Trong đó, có hai lý do quan trọng: Một, là chưa ý
thức đầy đủ về
một sự hòa nhập thực sự vào dòng chảy mỹ thuật thế giới. Và hai,
là chưa ý thức đầy đủ về
những thách thức của điều kiện tự do. Nói cách khác, là chúng ta
chỉ mới quanh quẩn bên nhau, gieo
rắc ảo tưởng cho nhau, và bằng lòng với những ảo ảnh tự tạo,
chứ chưa thực sự nhìn
mình bằng
cái nhìn người khác, và chưa thực sự có nhu cầu chứng minh sự tồn tại
của chính mình
trong mắt nhìn người khác... Ðến nay, sau hơn 15 năm "mở
cửa" với "đổi mới", mọi chuyện hầu như đã đến hồi ngã ngũ. Mọi
ảo tưởng, ảo ảnh - như bong bóng xà phòng - đã tan biến gần hết, không còn hấp
dẫn hay ru ngủ được ai nữa. Nhìn lại mỹ thuật Việt nam mới thập niên 90 - như
một phiên bản mờ nhạt của mỹ thuật phương Tây từ những thập niên 70 trở về
trước - có thể nói, chỉ
bằng trực giác, cảm nhận, chúng ta cùng lắm, chỉ bắt chước được người ta ở dáng vẻ bên ngoài,
chứ không thể tiếp thu, học hỏi được điều gì thực sự. Chiết trung
theo kiểu "bình mới, rượu cũ" đang là hình thức phổ biến ở Việt Nam .
Trong nghệ thuật, chiết trung là một hình thức nguy hiểm. Nó chứng tỏ sự thay
đổi cách thể hiện không đồng thời với sự thay đổi cách nhìn. Do đó, nó hư vô
hóa mọi nỗ lực đổi mới. Dẫn đến hiểu sai về nghệ thuật, biến nghệ thuật thành
một thứ trò chơi trang trí thuần túy. Nó có vẻ như làm mới nghệ thụât, nhưng
thật ra, chỉ là sự lạc lối, làm nghèo nàn đời sống tinh thần. Ngoài ra, rất
nhiều "con
người mỹ thuật" trong chúng ta, dường như không sống thật.
Cứ như những "người
đẹp trong môi trường formol" (định hình trong một lối vẽ nào
đó rồi là không dám thay đổi nữa), mà tác phẩm, chỉ là kết quả của sự "sinh sản vô tính"...
Sáng tác, nhìn chung, là vậy. Công chúng, như đã biết, ngơ ngác hay quay lơ.
Còn phê bình, ai cũng thấy, bao nhiêu năm đã đứng nép bên lề. Lâu lâu có vài
tiếng cất lên, thì oái oăm, nếu không phải là những câu khẩu hiệu suông, cũng
chỉ là những lời nói leo, nói lặp. Thậm chí, nói bậy.
Mỹ thuật Việt Nam vẫn có thể hiện đại hóa như
thường mà không cần phải theo Tây, theo Mỹ, theo Tàu. Ðiều này dễ được chấp
nhận. Tuy nhiên, không thể vì thế mà quay lưng lại với cả thảy. Nhất là khi
những sản phẩm của nó đã tràn ngập vào không gian sống, lặn sâu vào trong tiềm
thức của chúng ta. Cần phải biết rõ, hiểu rõ về chúng. Ðó là sự tiêu hóa. Và
chỉ như vậy mới chuyển hóa được thành năng lượng thực sự để tăng trưởng, đổi
mới.
Không thể mãi bất cần lý thuyết.
Cái kết luận của Thanh Thảo, đã
dẫn, có thể, chỉ xuất phát từ quan niệm phê bình theo truyền thống hiện thực và
lãng mạn chủ nghĩa khả dụng một thời, và có thể đúng trong trường hợp Thái Bá
Vân. Nhưng vô tình, đã phản ánh đúng tâm trạng và suy nghĩ của không ít người
viết phê bình và không ít công chúng mỹ thuật lâu nay: Ðể hiểu tác phẩm ? - Thôi, thì hỏi tác
giả cho nhanh!
Nguyên Hưng
(2000)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét