11 thg 7, 2013

PHÊ BÌNH MỸ THUẬT VỚI VẤN ÐỀ LÝ THUYẾT-KHÔNG THỂ MÃI BẤT CẦN...

Trong bài viết ngắn về Nguyễn Sáng qua mắt nhìn Thái Bá Vân đăng trên Thể thao & Văn hóa (tháng 10 năm 2001) nhà thơ Thanh Thảo đã kết luận như đinh đóng cột - đại ý - phải thật gần, thật hiểu tác giả, nhà phê bình mới có được những câu chữ thuyết phục đến vậy! Chưa cần biết Thái Bá Vân nhìn Nguyễn Sáng đúng, sai như thế nào, nhưng điều có thể nói ngay, cái kết luận của Thanh Thảo là liều. Liều, bởi không chắc đúng. Thực tế, nhiều khi tác giả là người như thế này, nhưng tác phẩm lại như thế khác. Trong nghệ thuật, tài với đức, với ý thức công dân, với tinh thần trách nhiệm, với sách vở bồ bồ, và cả với tay nghề thuần thục v.v... chưa chắc đã có gì ăn nhập. Bám theo tác giả, nghe theo tác giả, phê bình rất dễ sa vào khuynh hướng tán tụng, thù tạc, rất dễ mắc bẫy huyền thoại. Không ít họa sĩ nổi tiếng "oan" là vì thế. Và, cho dù có rất nhiều bài viết gọi là phê bình, nhưng công chúng, số đông, vẫn không hiểu gì nhiều về mỹ thuật, vẫn cứ phải "kính nhi viễn chi" cũng là vì thế.

Ðể phê bình thực sự, trước hết, cần phải tránh xa tác giả. Chỉ có một đầu mối duy nhất cần được tiếp cận: tác phẩm. Bởi, trong nghệ thuật, chỉ tác phẩm mới thực sự tồn tại. Tác phẩm "nói lên". Và, sự "nói lên" này, trong phần lớn trường hợp, vượt khỏi tầm kiểm soát của tác giả. Giữa ý thức tác giả và tác phẩm bao giờ cũng có một khoảng cách. Ðiều này có nguyên do. Ðành rằng, tác giả là người tạo ra tác phẩm, nhưng chính hắn, lại là sản phẩm của văn hóa, của lịch sử. Có nhiều điều nằm sâu trong tiềm thức, chế định tầm nhìn, cách nhìn và ngôn ngữ của hắn, mà hắn, nếu không thường xuyên phản tỉnh trong ý thức khôi phục và bảo toàn tự do - nhân tính nơi mình sẽ chẳng hề hay biết. Không ít họa sĩ đã thừa nhận, phải rất lâu sau khi sáng tác, hay qua phê bình, mới hiểu được phần nào tác phẩm của chính mình...

Tác phẩm "nói lên", nhưng để "nghe" được nó, quả thực, không phải là chuyện dễ dàng. Nghệ thuật khác nhau ở những vùng văn hóa khác nhau. Và khác nhau qua từng thời đại. Không hề có một tiêu chuẩn chung, một hệ qui chiếu chung, một căn cứ lý thuyết chung nào cho phê bình. Mỗi cái khác, khác nói trên đều có cơ sở mỹ học của nó. Không thể lấy các tiêu chuẩn của nghệ thuật cổ điển để xem tranh ấn tượng; không thể lấy các tiêu chuẩn của nghệ thuật hiện thực hay lãng mạn để xem tranh trừu tượng hay lập thể v.v... Nói chung, để "nghe" được tác phẩm, để có thể phê bình, ngoài sự nhạy cảm điều dứt khoát là cần phải học. Tất nhiên có nhiều cách học khác nhau, nhưng bằng cách nào thì cũng phải học thực sự. Người nào biết được nhiều lý thuyết hơn sẽ có cơ may cảm thụ tốt hơn, dễ chấp nhận cái mới lạ hơn và có khả năng diễn dịch rộng rãi hơn. Không thể thuần tuý trông cậy vào trực giác, cảm nhận. Ðó là một ảo tưởng. Thực tế, không có sự cảm nào mà không tuỳ thuộc vào sự biết, sự hiểu...

Lạ, là cho đến nay, ở Việt Nam, không chỉ riêng quảng đại quần chúng, mà ngay các họa sĩ, và cả giới phê bình, tiếp cận tác phẩm mỹ thuật, chủ yếu vẫn phải trông cậy vào trực giác, cảm nhận. Dễ thấy, bởi sự trống vắng lý thuyết hầu như hoàn toàn. Sách vở không có là chuyện đã đành, mà ngay trong môi trường đại học, kể cả nơi các trường đại học chuyên ngành, vấn đề lý thuyết vẫn là bất cập...

Trước đây, chúng ta có nhiều lý do để an tâm bất cần lý thuyết. Trong đó, có hai lý do quan trọng: Một, là chưa ý thức đầy đủ về một sự hòa nhập thực sự vào dòng chảy mỹ thuật thế giới. Và hai, là chưa ý thức đầy đủ về những thách thức của điều kiện tự do. Nói cách khác, là chúng ta chỉ mới quanh quẩn bên nhau, gieo rắc ảo tưởng cho nhau, và bằng lòng với những ảo ảnh tự tạo, chứ chưa thực sự nhìn mình bằng cái nhìn người khác, và chưa thực sự có nhu cầu chứng minh sự tồn tại của chính mình trong mắt nhìn người khác... Ðến nay, sau hơn 15 năm "mở cửa" với "đổi mới", mọi chuyện hầu như đã đến hồi ngã ngũ. Mọi ảo tưởng, ảo ảnh - như bong bóng xà phòng - đã tan biến gần hết, không còn hấp dẫn hay ru ngủ được ai nữa. Nhìn lại mỹ thuật Việt nam mới thập niên 90 - như một phiên bản mờ nhạt của mỹ thuật phương Tây từ những thập niên 70 trở về trước - có thể nói, chỉ bằng trực giác, cảm nhận, chúng ta cùng lắm, chỉ bắt chước được người ta ở dáng vẻ bên ngoài, chứ không thể tiếp thu, học hỏi được điều gì thực sự. Chiết trung theo kiểu "bình mới, rượu cũ" đang là hình thức phổ biến ở Việt Nam. Trong nghệ thuật, chiết trung là một hình thức nguy hiểm. Nó chứng tỏ sự thay đổi cách thể hiện không đồng thời với sự thay đổi cách nhìn. Do đó, nó hư vô hóa mọi nỗ lực đổi mới. Dẫn đến hiểu sai về nghệ thuật, biến nghệ thuật thành một thứ trò chơi trang trí thuần túy. Nó có vẻ như làm mới nghệ thụât, nhưng thật ra, chỉ là sự lạc lối, làm nghèo nàn đời sống tinh thần. Ngoài ra, rất nhiều "con người mỹ thuật" trong chúng ta, dường như không sống thật. Cứ như những "người đẹp trong môi trường formol" (định hình trong một lối vẽ nào đó rồi là không dám thay đổi nữa), mà tác phẩm, chỉ là kết quả của sự "sinh sản vô tính"... Sáng tác, nhìn chung, là vậy. Công chúng, như đã biết, ngơ ngác hay quay lơ. Còn phê bình, ai cũng thấy, bao nhiêu năm đã đứng nép bên lề. Lâu lâu có vài tiếng cất lên, thì oái oăm, nếu không phải là những câu khẩu hiệu suông, cũng chỉ là những lời nói leo, nói lặp. Thậm chí, nói bậy.

Mỹ thuật Việt Nam vẫn có thể hiện đại hóa như thường mà không cần phải theo Tây, theo Mỹ, theo Tàu. Ðiều này dễ được chấp nhận. Tuy nhiên, không thể vì thế mà quay lưng lại với cả thảy. Nhất là khi những sản phẩm của nó đã tràn ngập vào không gian sống, lặn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta. Cần phải biết rõ, hiểu rõ về chúng. Ðó là sự tiêu hóa. Và chỉ như vậy mới chuyển hóa được thành năng lượng thực sự để tăng trưởng, đổi mới.

Không thể mãi bất cần lý thuyết.

Cái kết luận của Thanh Thảo, đã dẫn, có thể, chỉ xuất phát từ quan niệm phê bình theo truyền thống hiện thực và lãng mạn chủ nghĩa khả dụng một thời, và có thể đúng trong trường hợp Thái Bá Vân. Nhưng vô tình, đã phản ánh đúng tâm trạng và suy nghĩ của không ít người viết phê bình và không ít công chúng mỹ thuật lâu nay: Ðể hiểu tác phẩm ? - Thôi, thì hỏi tác giả cho nhanh!






Nguyên Hưng
(2000)

Không có nhận xét nào: