Sau khi công bố bài "Phê bình mỹ
thuật: một chuyện thừa?" , tôi nhận được rất nhiều
hồi âm của các bạn hữu trong giới sáng tác và phê bình mỹ thuật. Bên cạnh những
ý kiến đồng tình, có không ít những ý kiến phản đối. Trong các ý kiến phản đối,
ý kiến nổi bật nhất có thể được tóm tắt như sau: Viết về trình độ nhận thức của
họa sĩ Việt Nam
đương đại như vậy có “khắc nghiệt” quá không? Một số người còn nhắc nhở: Không
nên quên là, lâu nay, lực lượng nghệ sĩ tạo hình ở Việt Nam đã phân hóa
rất nhiều, trong đó, có nhiều người rất khá, không nên bỏ qua…
Đọc những ý kiến phản
đối ấy, tôi không hề ngạc nhiên. Ngay trước khi đặt bút, tôi đã biết, lối viết
phê bình nhắm đến cái chung, nghiêng nặng phần phê, mà lại phê thẳng thừng mọi
chuyện như vậy, rất dễ gây sốc. Nó đụng chạm đến niềm tin hồn nhiên nơi rất
nhiều người. Nó phá vỡ sự an tâm với các mặc cảm tự tôn cũng như với các toan
tính này nọ nơi không ít người khác. Soi chiếu vào đời thường, nó dễ bị xem
là “không cận nhân tình” , là “khắc nghiệt”, v.v…
Biết, nhưng tôi vẫn
viết. Không phải vì muốn làm một thứ “anh hùng” gì cả. Đơn giản, tôi chỉ muốn
đi đến tận cùng con đường mình đã lựa chọn. Tôi tin, nếu không có sự “khắc
nghiệt” này, nếu không có ai nhìn thẳng và “lạnh lùng” mổ xẻ các vấn
đề thực tế, thì chắc chắn, sẽ chẳng có gì chuyển hóa thực sự cả.
Do mới chỉ là những “cảm
nhận”, chưa thành lý lẽ để có thể tranh luận, nên tôi xem các phản ứng
không đồng tình nêu trên chỉ như một đề nghị nghĩ lại. Đúng hơn, chỉ như
một cái cớ để viết thêm bài này. Vấn đề tôi muốn đào xới ở đây là: Phải
chăng trong sự phân hóa của mỹ thuật lâu nay, đã có nhiều tín hiệu của sự tiên
tiến, tích cực, đủ để có thể lạc quan?
Đúng là, không ai có
thể phủ nhận được, kể từ thời “đổi mới” với xu hướng “mở cửa” - “giao
lưu” với “hội nhập” - nền mỹ thuật Việt Nam đã trở nên “đa sắc,
đa hình, đa tình, đa ý” hơn. Tuy nhiên, sự phân hóa này như thế nào - các
chiều hướng: tính chất, trình độ - và có thật những nhân tố tích cực, tiên
tiến hay không - được nhận diện ra làm sao?, có đồng nghĩa với sự phân
hóa về cách nhìn nghệ thuật - căn cơ của sự đổi mới - hay không, là điều
cần phải phân tích, diễn giải. Thực tế, không có gì khó khăn để nhận thấy, đó
chỉ mới là sự phân hóa trên bề mặt, theo sự hấp dẫn của thị trường vốn phân
tầng “thượng vàng, hạ cám”, theo những kênh , những tuyến
đã trở thành lối mòn , ăn thông với “vườn an cư” truyền thống
được nhà nước bảo bọc - kiên trì “định hướng” và đầu tư nhiều tiền của -
và, ăn thông với thế giới “hiện đại” bên ngoài -thực chất là phương Tây
- vốn nằm trong trường giao tiếp “truyền thống” và luôn sẵn có
các chuyên gia tiếp thị, các nhà bảo trợ đủ kiểu, đủ tầm… đưa tay chào đón.
Nói chung, khá dễ dãi, hời hợt. Thậm chí, nó làm liên tưởng đến sự “hóa thân”
nơi trẻ con, khi tiếp xúc với thế giới truyền hình. Trong phút chốc, đứa thành
“Tôn Ngộ Không”, đứa thành “Triển Chiêu”, đứa thành “Lệnh Hồ
Xung” v.v… và cứ thế mà “biến”, mà “hóa”.
Nói vậy, có thể hơi quá
đáng, nhưng không hẳn vô căn cứ. Vấn đề ở đây là tính tự giác nơi con người sáng
tạo. Chẳng lạ gì mà cho đến ngày nay, vẫn còn có khối họa sĩ “phục vụ chính
trị” vẽ tranh minh họa các kiểu vẫn cứ tỉnh bơ xem mình là “chính thống”, và có
khối họa sĩ khác chuyên vẽ tranh thương mại vẫn cứ khệnh khạng bàn chuyện nghệ
thuật. Ở đây, rõ ràng, ranh giới giữa nghệ thuật với phi nghệ thuật đã không
còn được phân biệt. Điều này phần nào giải thích lý do tại sao mà, sau giai
đoạn khởi đầu “đổi mới” bừng bừng khí thế -“trăm hoa đua nở”, ai ai
cũng háo hức, cũng tràn trề hy vọng…- khá ngắn ngủi, mọi chuyện, từ chuyện
sáng tác đến chuyện sinh hoạt, từ chuyện thị trường đến chuyện thông tin, phê
bình…, càng ngày càng chùng xuống, càng có vẻ như đi vào bế tắc, mỏi mệt. Cả
hệ thống trở nên rã rời. Những “thành tựu” có được, cơ bản, chỉ là
những ảo tưởng. Cho đến giờ, người trong làng mỹ thuật, có lẽ, chẳng còn ai đủ
tự tin để huênh hoang về những chuyện như “Kể từ thời đổi mới, mỹ thuật là
loại hình nghệ thuật hội nhập nhanh nhất vào dòng chảy nghệ thuật thế giới”,
“Mỹ thuật Việt Nam khá nhất khu vực Đông Nam Á”… nữa. Nếu tiếp cận có hệ
thống và phân tích thẳng thắn, hầu như không ai có thể kể ra được một vài tác
phẩm có ý nghĩa độc sáng, hay, thậm chí, chỉ là vài manh nha cho một cách nhìn
nghệ thuật mới mẻ nào đó tiêu biểu cho thời “đổi mới”… Sự thích ứng với
hoàn cảnh mới nơi các nghệ sĩ, cho đến nay, lộ ra, dường như chỉ là những
phản ứng có màu sắc “cơ hội chủ nghĩa”, hay, ẩn chứa những mặc cảm lạc hậu, yếu
đuối, và cả sự “non lòng trẻ dạ”… Dễ thấy điều này nhất, khi thử đặt
các nghệ sĩ trước khái niệm “đương đại”. “Đương đại” là cái mới nhất ở Tây?
là cái mang tính phổ quát của nghệ thuật nhân loại hiện tại? hay, đơn giản, chỉ
là cái đang là ở Việt Nam
không cần phải thắc mắc…? v.v… Có thể nói, tất cả đang rối bời. Dĩ nhiên,
cần phải ghi chú, trong mọi lãnh vực, ở đâu, lúc nào cũng có những ngoại lệ. Có
thể, có những cá nhân thật xuất sắc. Nhưng, những cá nhân xuất sắc này, có được
nhận diện hay không? Có thể trở thành tác nhân tích cực làm nên diện mạo mới
của mỹ thuật Việt Nam
hay không? Và, có thể đi xa được hay không? Hay, cũng sẽ mãi bị che lấp trong
sự xô bồ của thiết chế mỹ thuật chưa có gì là chuyên nghiệp, cũng sẽ bị chìm
khuất trong cái đầm lầy không bờ không đáy - mơ hồ mọi sự - của cả nền văn hóa
mỹ thuật, Việt Nam, hiện tại?...
Nói chung, chưa có gì
để lạc quan, để có thể an tâm chờ đợi một mùa bội thu cả.
Những ý kiến vừa nêu,
thực ra, tôi đã phát biểu nhiều lần, ở nhiều nơi khác nhau. Nhiều người đồng
tình, nhưng cái nhãn “khắc nghiệt”, vẫn được dán kèm theo đó không ít.
Lý lẽ thường được đưa ra, đại khái: Ở giai đoạn đầu hòa nhập, bắt chước,
phỏng tạo là điều khó tránh khỏi, “nhái theo để hòa nhịp” là chuyện đương
nhiên, không cần phải sốt ruột, tiếp theo, chỉ mới mười mấy năm đổi mới,
từ một tình trạng cơ thể suy dinh dưỡng ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và
đói ăn trầm kha… mà đòi hỏi một sự chuyển hóa nhanh chóng về chất là điều không
tưởng. Cần phải có thời gian…
Theo tôi, đây là một
phản ứng hoàn toàn cảm tính. Và vô vọng. Cảm tính, bởi chẳng lẽ mọi sự phê phán
đều thuần túy chỉ bởi cảm hứng phê phán hay chỉ với mục đích phủ định?
Vô vọng, bởi lý lẽ được đưa ra như vậy là hết sức thiếu chuyên nghiệp, và hơi
có phần vô trách nhiệm. Bởi, ngay trong ý thứ nhất, “hòa theo” cái gì? tại
sao phải “hòa theo”? đã là điều cần phải biện biệt. Xong, mới có thể nói tiếp
“hòa theo” như thế nào? Không biện biệt, mọi cố gắng “hòa theo” đều rất dễ sa
vào những cái bẫy “thực dân chủ nghĩa” vốn luôn chực chờ ở khắp mọi nơi-trong
“cái nhìn người khác” và cả trong các “mặc cảm thuộc địa” thường, vốn ẩn sâu
trong mỗi người. Và, trong ý thứ hai: Đúng là các nghệ sĩ Việt Nam đã sống quá
lâu trong tình trạng “ốm đói”. Ốm đói do “thiếu ăn”. Nhưng đừng quên, “ốm đói”
không chỉ do “thiếu ăn”. Không ít người sống trong điều kiện thừa mứa mọi thứ
mà vẫn “ốm đói”. Nhiều khi tệ hơn: “bệnh”. Nhiều khi tệ hơn nữa: “bội thực” mà
“đột tử”. Vấn đề ở đây, chủ yếu, nằm ở sự hiểu biết về “cách ăn”, về
“chế độ dinh dưỡng”. Vấn đề này không phải tự nhiên ai cũng biết. Đó là chuyện
của kinh nghiệm, của khoa học, của tư tưởng v.v… Điều quan trọng, là phải xác
nhận tình trạng “ốm đói”, sau đó, mới có thể truy tìm nguyên nhân, rồi mới có
thể “kê toa” cải thiện”.
Ở đây, tôi muốn ghi chú
thêm chút xíu về vai trò của phê bình. Phê bình, không thể biến bông Cúc thành
bông Hồng. Việc đi chê bông Cúc không đẹp, không quí bằng bông Hồng là một sai
lầm ngớ ngẩn của phê bình… Nhưng, phê bình, có thể góp phần vào việc canh tân
đất, cải tạo giống và tạo ra một môi trường thuận lợi…, để bông Cúc có thể đạt
đến vẻ đẹp hoàn hảo nhất của nó, để bông Hồng v.v… và v.v…, cũng vậy. Phê bình
thực sự, tự bản chất, bao giờ cũng đương đầu với thể chế, với cơ sở và các vấn
đề học thuật, với các quan hệ, các chiều hướng tương tác trong mặt bằng văn hóa
mỹ thuật v.v… Không ý thức, hay dị ứng với phê bình - ở ý nghĩa này - bao giờ
cũng có nghĩa là… phản động.
Ở Việt Nam, đối với
lãnh vực mỹ thuật, cho đến nay, đã có sự “xác nhận” và đã có một chương
trình “phòng chống suy dinh dưỡng” nào được triển khai chưa? Đã có một
sách lược “tăng trưởng chiều cao” cấp quốc gia nào được đề xuất chưa?
Khó nói “có” mà
cũng khó nói “chưa”. Khó nói “chưa”, bởi chẳng phải cho đến nay,
về phương diện lý thuyết, nhà nước đề cao nghệ thuật, trong đó có mỹ thuật khá
cao, và về phương diện thực tiễn, nhà nước cũng bỏ tiền cho giới mỹ thuật khá
nhiều đó sao? Khó nói “có”, bởi thực tế, chưa có tín hiệu gì của sự đổi
mới thực sự cả. Dường như, đang có sự nhầm lẫn trong cách sử dụng sự đề cao và
đầu tư này của nhà nước. Các nhà quản lý, dường như, đã không thấy, hay
không chịu thấy, cái thiếu lớn nhất, cơ bản nhất nơi các nghệ sĩ Việt Nam không
phải là tiền đầu tư cho sáng tác, mà là một nền tảng tri thức, một sức bật tư
tưởng, và một điểm tựa văn hóa…
Bao năm qua, những
khoảng tiền đầu tư lớn ấy của nhà nước, dường như, chỉ tập trung cho việc “truyền
nước biển” duy trì lực lượng “nghệ sĩ” phục vụ “cách mạng” và
nuôi dưỡng phong trào. Nó gần như là một nỗ lực “đem muối bỏ biển”. Hãy
thử xem kết quả: Bao nhiêu tiền đầu tư cho sáng tác - kêu gọi “về nguồn”,
đề cao “bản sắc dân tộc”, “ca ngợi cách mạng” - nhưng cho đến
nay, có ra nổi một tác phẩm nghệ thuật “bất hủ” nào không? Tất cả, đều
là những thứ tầm tầm, bày ra một lần rồi đưa về đâu đó, có mặt mà vẫn cứ như
không, không lưu lại trong tâm trí ai một chút gì, dù chỉ như một khái niệm…. Còn
các trại sáng tác, tập trung các nghệ sĩ gọi là “cơ bản”, cũng được đầu
tư tốn kém, nhưng qua các triển lãm tổng kết, quay qua quay lại cũng lẩn quẩn
những tác phẩm ghi chép Tự nhiên hay Ấn tượng chủ nghĩa cũ xì, hay, thể hiện
một lối tư duy Tượng trưng chủ nghĩa - thực ra, phần lớn là minh họa ý niệm thô
thiển. Nếu lấy số lượng “tác phẩm” có được làm tiêu chuẩn đánh giá, thì
các trại sáng tác này thành công. Nhưng trong nghệ thuật, số lượng, thực ra,
đâu có ý nghĩa gì. Không có “chất”, thì “lượng” lớn đến đâu rồi
cũng tiêu tán không dấu vết. Không biết có ai làm công việc phân tích, tổng hợp
các thành phần tham gia và kết quả các trại sáng tác này một cách hệ thống
chưa? Nhưng, nếu có ai đã làm, tôi tin chắc, chỉ còn biết thở dài. Tôi đã từng
nghe loáng thoáng từ ai đó: “Các trại sáng tác, chỉ là để hợp thức hóa
chuyện mấy ông trốn vợ đi chơi!”. Đùa, nhưng không hẳn không có chút sự
thực nào. (Cho đến nay, tiêu chí cho các trại sáng tác này vẫn hết sức không
rõ ràng. Nếu lấy “bám sát hiện thực”, “đi vào thực tế đời sống nhân dân”… làm
tiêu chí, thì khá nhiều ông họa sĩ “Siêu thực tiêu diêu” hay “Trừu tượng mơ
màng” rất hay đi, chẳng nên đi làm gì; nếu lấy “môi trường thể nghiệm” làm tiêu
chí, thì sự đầu tư theo kiểu phát cho mỗi người vài mét vải bố, cấp ít tiền mua
sơn, mua dầu như vẫn làm, lại trở thành một … “chuyện đùa”…)
Trong khi đó, thực tế:
Với các nghệ sĩ, đi tìm
“nguồn dinh dưỡng” duy trì và phát triển khả năng sáng tạo, cho
đến nay, cơ bản, vẫn loay hoay và cầu âu theo kiểu “hái lượm” và “săn
bắn”. Vẫn có những cơ sở chuyên “sản xuất và phân phối lương thực, thực
phẩm” đấy, nhưng sản phẩm, không thể nói khác, vừa quá nghèo nàn, ít giá
trị dinh dưỡng, vừa meo mốc, thậm chí, còn cả đồ phế thải, đồ giả…
Đa số vẫn
“thiếu ăn”, đã đành. Oái oăm, lắm người “dư ăn” mà “ốm đói”. “Ăn sống nuốt tươi”, không chọn lọc và không điều độ
v.v…, dường như, cũng đang là hiện tượng phổ biến… Thì cũng có các “trung
tâm dinh dưỡng” đấy, nhưng hoạt động, không thể nói khác, cũng chỉ dừng lại
ở mức khuyên bảo: thôi thì cứ ăn khoai, ăn sắn… như cha ông, hay ăn những
thứ chế biến sẵn, đã được kiểm nghiệm, đóng hộp cho chắc! v.v…
Tôi thực lòng không có
ý định bỡn cợt trong những dòng trên, Đó là điều và kiểu các họa sĩ vẫn nói với
nhau nơi “vỉa hè”, ở những giây phút thực lòng. Tôi đưa vào bài, bởi cảm
thấy nó đúng, và đắc. Không tin, cứ thử đi vào vài ngóc ngách:
- Cho đến nay, ở Việt Nam, đã có một công trình
lý luận nào bàn về mối quan hệ giữa công chúng với nghệ thuật, hay, một công
trình nghiên cứu xã hội học nào về công chúng mỹ thuật Việt Nam đương đại chưa?
Câu trả lời chắc chắn là chưa. Chưa, nên đến giờ, vẫn còn lắm người cứ lải nhải
về chuyện “phải vẽ sao cho công chúng hiểu”, “vẽ để phục vụ công
chúng”, hay vẫn cứ lấy “sự tiếp nhận của công chúng” làm tiêu chuẩn
đánh giá nghệ thuật… Và, thường xuyên tự mâu thuẫn khi khệnh khạng cho “thị
trường” chỉ có “suy đồi”…
- Cho đến nay, ở Việt Nam, đã có một công trình
lý luận nào biện biệt sự tác động qua lại giữa cái nghệ-thuật-là
với cái nghệ-thuật-làm căn cứ trên các thành tựu trí tuệ của nhân
loại cho đến ngày nay, làm cơ sở cho sự định hướng sáng tác và phê bình… hay
chưa? Câu trả lời chắc chắn cũng là chưa. Chưa, nên đa số họa sĩ, cho đến giờ,
vẫn còn loay hoay trước các vấn đề cũ xì về chức năng của nghệ thuật, về các
mối quan hệ nghệ thuật với chính trị, với đạo đức v.v…, vẫn cứ lúng túng trước
sự phán xét: “nghệ thuật đang không theo kịp cuộc sống”, vẫn cứ tự tin
lảm nhảm về sự “thành thật” của mình khi sáng tác, vẫn nhập nhằng lẫn
lộn giữa yếu tính với chức năng, dẫn đến, cũng mơ hồ về bản chất và qui luật
vận động và phát triển của nghệ thuật khiến cái nhìn lịch sử trở nên ngưng
đọng, hay cứ mãi sa đà vào những chuyện sinh hoạt, những chuyện “râu ria”
ngoài rìa nghệ thuật v.v…
- Cho đến nay, ở Việt Nam , đã có một công trình nghiên cứu nào về các
lý thuyết nghệ thuật của nhân loại mà các ứng dụng của nó đang ảnh hưởng rất
nhiều đến các họa sĩ Việt Nam …
để làm cơ sở chọn lọc cho sự tiếp thu, học hỏi hay chưa? Câu trả lời chắc chắn
cũng là chưa. Chưa, nên mới có lắm ngộ nhận ngớ ngẩn như tôi đã nêu trong bài
trước (Phê bình mỹ thuật: một chuyện thừa?); nên đến giờ, vẫn còn rất
nhiều người, kể cả trong giới sáng tác, vẫn nói “linh tinh lang tang” về
Trừu tượng, về Siêu thực, như đã thấy ở khắp mọi nơi, chưa kể đến những thứ mới
hơn chút xíu như Installation, như Performance v.v…
- Ngay cả một công trình lý thuyết tương đối hệ
thống về Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa trong mỹ thuật - được xem là
chính thống ở Việt Nam - suốt mấy chục năm qua hầu như cũng không có.
Không, nên “cái nhìn chủ đạo”, thực chất, cũng không thành, giới sáng
tác trung thành rốt cuộc cũng chỉ dừng lại mãi ở tư cách nghiệp dư, chỉ còn là
những “động thể thừa hành” theo “cái nhìn chỉ đạo” của các cán bộ
tuyên huấn, các nhà chính trị, thể hiện qua một số tín điều, một số khẩu hiệu,
thậm chí là một số mệnh lệnh…, khiến phần lớn, sa vào minh họa, mô tả giản đơn,
thậm chí thô thiển, dung tục. Và do đó, trước hoàn cảnh mới, trước yêu cầu đổi
mới, cũng không thể có một sự tự phù định, vượt qua chính mình…
- Oái oăm hơn nữa, ngay cả một công trình mỹ
thuật sử Việt Nam
hiện đại cho tử tế cũng không có. Điều đó thể hiện một sự mơ hồ về cái điều
chúng ta vẫn hay nói: sự phát triển. Với sự mơ hồ như vậy, không biết đâu là
mốc, sẽ không ai biết thế nào là mới, thế nào là cũ. Khái niệm “đương đại”,
do đó, cũng mơ hồ (bởi vậy mà không ít họa sĩ đã nhầm lẫn đương đại là những gì
mới nhất ở những đâu đâu…), thậm chí, ngay cả khái niệm “bản sắc”, cũng
mơ hồ nốt (chẳng lạ gì, không ít người nghe nói về “bản sắc” là bấu ngay
vào nghệ thuật dân gian, vào cái gọi là “văn hóa làng” này nọ, làm như
“bản sắc” là một cái gì vĩnh cửu, đã định hình ngay từ thuở xa xưa…)
- V.v… và v.v…
Tại sao lại có sự nhầm
lẫn thảm hại như vậy? Tại sao lại có nhiều bất cập đến vậy?
Một trong những nguyên
nhân quan trọng nhất nằm ở cung cách quản lý lạc hậu trong cách nhìn nghệ
thuật. Cách nhìn ấy, cơ bản, vẫn xem nghệ thuật là phương tiện, vẫn xem nghệ
sĩ là công cụ, vẫn bám chặt vào truyền thống Hiện thực và Lãng mạn chủ nghĩa và
vẫn tin rằng ở đó có những giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu…
Đặc điểm của cung cách
quản lý ấy là gì? Theo tôi, có hai đặc điểm chính:
Thứ nhất, đó là cách nhìn gắn liền với tư duy thời chiến: Nó vừa đơn
giản hóa vấn đề vừa đậm màu sắc duy ý chí. Trong một bài viết cũ, tôi
đã từng đề cập đến vấn đề này, để cho tiện, tôi trích lại ở đây: “Thời chiến
tranh, để giành chiến thắng, chúng ta phải huy động mọi nguồn lực nhằm cấu
thành một lực lượng mạnh, thống nhất. Người nghệ sĩ lúc này cũng là chiến sĩ,
là cán bộ. Nhiệm vụ của họ là góp phần thuyết phục, liên kết các thành phần cơ
bản làm nên lực lượng mạnh và thống nhất đó; góp phần hướng tâm trí mọi người
vào những vấn đề lớn, chung và kêu gọi sự hy sinh bản thân. Nghệ thuật ở đây,
trong một mức độ nhất định, đồng nghĩa với nghệ thuật tuyên truyền, cổ động. Nó
phải đi vào cuộc sống, phải dễ hiểu với số đông công chúng, phải có nội dung tư
tưởng sáng rõ, và cần thông qua các hình tượng mang tính điển hình. Mọi mong
muốn tìm tòi, thể nghiệm đổi mới nghệ thuật về hình thức và ngôn ngữ, là lý
tưởng, là nhu cầu tự nhiên nơi người nghệ sĩ, đành phải tạm gác lại. Và đồng
thời, yêu cầu phổ cập kiến thức nghệ thuật, nâng cao trình độ nhận thức nghệ
thuật nơi số đông công chúng, cũng chỉ dừng lại ở mức độ thích ứng với nhiệm vụ
tuyên truyền, cổ động của nghệ thuật… Cho đến ngày nay, chúng ta cần phải tỉnh
táo và thẳng thắn thừa nhận điều kiện bất thường của cuộc sống thời chiến đã
đòi hỏi nghệ thuật phải tồn tại khác thường. Đó chỉ là giải pháp tình thế, là
khả chấp trong điều kiện thời chiến… Giải pháp này không thể kéo dài trong bối
cảnh hòa bình dựng xây đất nước đang cần huy động mọi nguồn lực sáng tạo hiện
nay. Bối cảnh mới đòi hỏi một tư duy thích ứng. Cần trả nghệ thuật về với đời
sống bình thường của nó và cần nhìn nhận nó đúng theo các khả năng và các chiều
quan hệ tự nhiên của nó. Chúng ta cần một cái nhìn cởi mở và rộng mở.”
Thứ hai, nó gắn liền với tư duy bao cấp thời trước đổi mới: lối tư duy
này xuất phát từ cách nhìn độc đoán, biến cán bộ quản lý thành những kẻ có vai
trò lãnh đạo tối thượng về nghệ thuật. Theo đó, ông thủ trưởng một cơ quan là
kẻ am hiểu nghệ thuật sành nhất, có viễn kiến về nghệ thuật cao nhất, một trọng
tài đáng tin cậy nhất về cái đẹp, v.v… Để hoạch định chính sách nghệ thuật,
người ta mời thủ trưởng. Để đánh giá tranh, người ta cũng mời thủ trưởng, v.v… Trong
lối tư duy bao cấp ấy không có chỗ đứng của những chuyên gia.
Những chuyên gia trong
lãnh vực mỹ thuật là ai? Có nhiều. Nhưng nổi bật nhất là:
a) các lý thuyết gia về
nghệ thuật và mỹ học
b) các nhà phê bình
c) các nhà lịch sử mỹ
thuật
và d) các curators.
Nói chung, quản lý theo
tư duy thời chiến và tư duy bao cấp như vậy bóp chết con đường của các lý
thuyết gia, gây khó khăn cho các nhà phê bình, làm nản lòng các nhà lịch sử
nghệ thuật và quan trọng nhất, ngăn chận sự xuất hiện và lớn mạnh của các
curators.
Không có các chuyên gia
thực sự, các chương trình “phòng chống suy dinh dưỡng” dù có được triển
khai, các sách lược “tăng trưởng chiều cao” cấp quốc gia dù có được đề
xuất, thì tất cả cũng chỉ là sự trượt dài theo những điều đã thấy-nói trên. Mỹ
thuật Việt Nam ,
vẫn tiếp tục “ốm đói”, “dặt dẹo”, vẫn tiếp tục mơ những giấc mơ
cao sang không bao giờ thành hiện thực…!
Nguyên Hưng
(2005)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét